Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện-ngắn-Nam-Cao. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện-ngắn-Nam-Cao. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 8 tháng 2, 2015

Đôi mắt

       Anh thanh niên làng chỉ một cái cổng gạch nhỏ, quay lại bảo tôi:
       - Ngõ này đây, ông Hoàng ở đây.
       - Cám ơn anh nhé. Lát nữa tôi sẽ sang nhà anh chơi.
       Tôi vỗ vai anh bảo vậy. Tôi toan vào. Anh vội ngăn tôi lại:
       - Khoan đã. Anh để em gọi cho anh trong nhà xích con chó lại. Con chó to và dữ lắm.
       Tôi mở to đôi mắt, khẽ reo lên một tiếng thú vị. Tôi nhớ đến những lần đến chơi nhà anh Hoàng ở Hà Nội. Bấm chuông xong, bao giờ tôi cũng phải chờ anh Hoàng thân hành ra nắm chặt cái vòng da ở cổ một con chó tây to bằng con bê, dúi đầu nó vào gầm cái cầu thang rồi tôi mới có đủ can đảm bước vội qua đằng sau cái đuôi nó để vào phòng khách.
       Tôi rất sợ con chó giống Đức hung hăng ấy. Sợ đến nỗi một lần đến chơi, không thấy anh Hoàng ra đứng tấn để giữ nó mà lại buồn rầu báo cho tôi biết nó chết rồi, thì mặc dầu có làm ra mặt tiếc với an, thật tình tôi thấy nhẹ cả người.
       Con chó chết vào giữa cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình. Không phải chết vì chủ nó không tìm nổi mỗi ngày vài lạng thịt bò để nó ăn mà. Anh Hoàng là một nhà văn, nhưng đồng thời cũng là một tay chợ đen rất tài tình. Khi chúng tôi đến nỗi chỉ còn một dúm xương và rất nhiều bản thảo chẳng biết bán cho ai, anh Hoàng vẫn phong lưu. Con chó của anh chưa phải nhịn bữa nào. Nhưng xác người chết đói ngập đường phố. Nó chết có lẽ vì chén phải thịt người ươn hay là vì hút phải nhiều xú khí. Thảm hại thay nó!
       Thế mà bây giờ đến thăm anh Hoàng ở chỗ gia đình anh tản cư về, cách Hà Nội hàng trăm cây số, tôi lại được nghe đến một con chõ dữ. Thật thú vị!...
       Tôi cười nho nhỏ. Chẳng biết tôi cười gì, anh thanh niên cũng nhe những chiếc răng vẩu ra cười. Đáp lại tiếng anh gọi, tiếng những chiếc guốc mỏng mảnh quét trên sân gạch nổi lên, lẹc khẹc và mau mắn. Một thằng bé mũ nồi đen, áo len xám chạy ra. Một đôi mắt đen lay láy nhìn tôi...
       - Bác Độ, ba ơi! Bác Độ!...
       Thằng Ngữ, con anh Hoàng. Nó chẳng kịp chào tôi, ngoắt chạy trở vào, reo rối rít.
       - Cái gì? Cái gì? Hừm!
       Tiếng trầm trầm nhưng lại có vẻ nạt nộ của anh Hoàng hỏi nó (Bao giờ nói với con, anh Hoàng cũng có cái giọng dậm dọa buồn cười ấy). Thằng bé líu ríu những gì rôi nghe không rõ. Rồi thấy tiếng thanh thanh của chị Hoàng giục con:
       - Ngữ xích con chó lại. Xích con chó lại cái cột tít đằng kia.
       Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả bởi vì người khí to béo quá, vừa bước vừa bơi cánh tay kềnh kệnh ra hai bên, những khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra và trông tủn ngủn nhưn ngắn quá. Cái dáng điệu nặng nề ấy, hồi còn ở Hà Nội anh mặc quần áo tây cả bộ, trông chỉ thấy là chững chạc và hơi bệ vệ. Bây giờ nó lộ ra khá rõ ràng, trong bộ áo ngủ màu xanh nhạt, phủ một cái áo len trắng nó nịt người anh đến nỗi không còn thở được.
       Anh đứng lại bên trong cổng, một bàn tay múp míp hơi chìa về phía tôi, đầu hơi ngửa về đằng sau, miệng hé mở, bộ điệu một người ngạc nhiên hay mừng rỡ quá. Tôi có thì giờ nhận rõ một sự thay đổi trên bộ mặt của anh: trên mép một cái vành móng ngựa ria, như một cái bàn chải nhỏ.
       Sững người ra một lúc rồi anh mới lâm li kêu lên những tiếng ở trong cổ họng.
       - Ối giời ơi! Quý hóa quá!
       Anh quay lại:
       - Mình ơi! Anh Độ thật. Xa thế mà anh ấy cũng chịu khó đến thăm chúng mình.
       Chị Hoàng lúc bấy giờ đã chạy ra, tay còn đang cài nốt khuy chiếc áo dài màu gạch vừa mới mặc vội vào để ra đón khách. Người đàn bà vồn vã:
       - Mong bác mãi. Lúc thằng cháu mới chạy vào, nhà tôi cứ tưởng nó trông nhầm. Cứ tưởng bác ở cách hàng mười lăm hai mươi cây số...
       Bắt tay tôi xong, anh Hoàng dịu dàng đẩy tôi đi trước. Chị vợ đã nhanh nhẹn chạy trước vào nhà, dọn bàn dọn ghế. Sao lại có một sự săn đón cảm động như thế được? Tôi đâm ngờ những ý nghĩ không tốt của tôi về anh, từ hồi Tổng khởi nghĩa trở đi.
       Sau Tổng khởi nghĩa, anh Hoàng đối với tôi đột nhiên nhạt hẳn đi. Mấy lần tôi đến chơi với anh, định để xem anh thay đổi thế nào trong cuộc thay đổi lớn của dân tộc chúng ta, nhưng đều không được gặp anh. Cửa nhà anh đóng luôn luôn: thằng nhỏ nhà anh đứng bên trong cửa nhìn qua một lỗ con, bao giờ cũng hỏi cặn kẽ tên tôi, để một lúc sau ra báo tôi rằng ông nó không có nhà. Mấy lần đều như vậy cả nên tôi đã sinh nghi. Lần cuối cùng trước khi bấm chuông tôi còn nghe thấy tiếng vợ chồng anh. Nhưng thằng nhỏ vẫn quả quyết rằng ông bà nó về trại những từ tối hôm trước kia rồi. Đã đích xác là anh không muốn tiếp tôi. Chẳng hiểu vì sao. Nhưng từ đấy tôi không đến nữa. Mỗi lần gặp nhau ở ngoài đường chúng tôi chỉ bắt tay nhau một cách rất lạnh lùng, hỏi thăm nhau một câu chiếu lệ rồi ai đi đường nấy. Tôi đã biết Hoàng vẫn có tính tự nhiên "đá" bạn một cách đột ngột, vì những cớ chỉ mình anh biết. Có khi chỉ vì tác phẩm của người bạn ấy được cảm tình của một nhà phê bình đã chê một vài tác phẩm của anh. Có khi cũng chẳng cần đến thế. Anh có thể là một người bạn rất thân của anh Hoàng khi anh chỉ là một nhà văn ở một tỉnh xa chỉ góp mặt với Hà Nội bằng những bài gửi về đăng báo, nhưng nếu anh lại về sống hẳn ở thủ đô, giao thiệp với ít nhiều nhà văn khác, anh sẽ không phải là bạn anh Hoàng nữa. Có lẽ anh Hoàng biết cái giới văn nghệ sĩ Hà Nội chửi anh nhiều quá.
       Riêng tôi, trước đây, tôi vẫn không hiểu sao người ta có thể khinh ghét anh nhiều thế. Tận đến lúc bị anh đá tôi mới hiểu. Tôi còn được hiểu rõ ràng hơn. Vào cái hồi quân đội Đồng minh vào giải giáp quân Nhật ở nước ta, một số gái kiếm tiền trút bộ áo đầm ra để mặc bộ áo Tầu. Còn anh bạn của tôi, chẳng biết bám được ông má chín nào, ra một tờ báo hàng ngày để chửi vung lên. Chửi hết cả mọi người rồi anh mới lôi đến một số bạn cũ của anh ra. Toàn những người hiền lành, xưa nay chưa hề chạm đến một sợi tóc của anh. Nhưng tên họ trên những tờ báo của phong trào giải phóng quốc gia được hoan nghênh là ngứa mắt anh. Anh hằn học gọi mỉa họ là những nhà văn vô sản và cho họ là một bọn khố rách áo ôm đã đến ngày mả phát, ăn mặc và tẩm bổ hêt cả phần thiên hạ. Tôi cười nhạt. Không phải tôi khó chịu vì những lời vu cáo của anh. Tôi khó chịu chính vì thấy đến tận lúc ấy mà vẫn còn một số nhà văn Việt Nam dùng ngòi bút mình để làm những việc đê tiện thế. Anh Hoàng vẫn là con người cũ. Anh không chịu đổi. Anh đã tưởng anh với tôi chẳng bao giờ còn thân mật với nhau trở lại... Nhưng sao gặp tôi lần này anh hân hoan đến thế? Anh đã đủ thì giờ để lột xác rồi chăng? Hay cuộc kháng chiến mãnh liệt của dân ta đã quét sạch khỏi đầu anh nhưng cái gì cũ còn sót lại? Thật tình, tôi rất cảm động khi nghe thấy anh kể lể:
       - Chẳng ngày nào chúng tôi không nhắc đến anh. Nguyên một hôm xem tờ báo của ông hàng xóm, thấy có bài của anh, tôi đoán anh làm tuyên truyền ở tỉnh này. Tiện gặp một cán bộ về làng, tôi nhờ gửi cho anh một bức thư. Cũng là gửi cầu may. Thật không dám chắc thư đến tay anh. Mà có đến, có lẽ anh nhiều việc, cũng khó lòng về chơi với chúng tôi. Thế mà lại được gặp anh. Trông anh không lấy gì làm khỏe mà sao anh đi bộ tài thế? Mà sao anh lại tìm vào được đúng làng này? Hồi mới đến đây, tôi ra khỏi nhà độ mươi thước là đã lạc. Nhiều ngõ quá mà ngõ nào cũng giống ngõ nào. Có khi ra đồng về cũng nhầm ngõ...


*

       Cái nhà anh Hoàng ở nhờ có thể gọi là rộng rãi. Ba gian nhà gạch sạch sẽ. Hàng hiên rộng ở ngoài. Sân gạch, tường hoa. Một mảnh vườn trồng rau tươi rười rượi. Xinh xắn lắm.
       Thích nhất là gia đình anh được ở cả nhà. Chủ nhân cũng là người buôn bán trên Hà Nội. Ông thường nhờ vốn liếng và đầu mối của vợ chồng anh. Còn gì hơn là lúc này trả nghĩa lại nhau. Ông đã dọn sang nhà ông bố ở liền bên, nhường lại nhà cho anh hoàn toàn sử dụng. Anh cho tôi biết thế và bảo tiếp:
       - Giá chúng tôi chưa tìm được nhà ông thì chưa biết ra sao. Tôi thấy nhiều người tản cư khổ lắm. Anh tính có đời nào anh ruột tản cư về nhà em mà đến lúc vợ đẻ, em bắt ra một cái lều ngoài vườn mà đẻ!
       Tôi cho anh biết người nhà quê mình có tục kiêng...
       - Thì đã đành vậy - Anh nói giọng tức tối và bất bình - thì đã đành vậy, nhưng lúc này thì còn kiêng kị gì? Mà có những thế thôi đâu! Thấy anh bây giờ khổ sở, em đã chẳng thương lại còn xỉa xói, nhắc đến những lúc hoang phí trước mà xỉ vả. Nào "lúc có tiền thì chẳng biết ăn nhìn để dè, chỉ biết nay gà mai chó!", nào "lúc buôn bán phát tài, bảo gửi tiền về quê tậu ruộng vườn thì bảo không cần vườn ruộng, để tậu nhà ở tỉnh kia, bây giờ không bám lấy nhà ở tỉnh đi?...". Tệ lắm! Anh tính mấy đời mới có một phen hoạn lạc thế này? Có tiền, thằng nào chả chơi? Có mấy người cứ còm cọm làm như trâu, ăn chẳng dám ăn, mặc chẳng dám mặc, ở thì chui rúc thế nào xong thôi, để tiền mà tậu vườn tậu ruộng như họ?
       Chị Hoàng tiếp lời chồng:
       - Họ làm chính chúng tôi cũng đâm lo. Có thể nói rằng trong một trăm người thì chín mươi người cho rằng Tây không đời nào dám đánh mình. Mãi đến lúc có lệnh tản cư tôi vẫn cho là mình tản cư để dọa nó thôi. Thế rồi đùng một cái, đánh nhau. Chúng tôi hcayj được người chứ của thì chạy làm sao kịp? May mà còn vớt vát được ít tiền. Một ít hàng để ở cái trại của chúng tôi, ở ngoại thành. Khéo lắm thì ăn được độ một năm. Đến lúc hết tất nhiên là phải khổ rồi. Chỉ sợ đến lúc ấy, họ lại mỉa mai. Thành thử bây giờ lý ra thì có muốn ăn một con gà chưa đến nỗi không mua nổi mà ăn, nhưng ăn lại sợ người ta biết, sau này người ta nói cho thì nhục. Họ tàn nhẫn lắm cơ bác ạ!
       Anh Hoàng cười:
       - Mà sao họ đã bận rộn nhiều đến thế mà vẫn còn thì giờ chú ý đến những người chung quanh nhiều đến thế? Anh chỉ giết một con gà, ngày mai cả làng này biết. Này, anh mới đến chơi thế mà lúc nãy tôi đã thấy có người nấp nom rồi. Ngày mai thế nào chuyện anh đến chơi tôi cũng đã chạy khắp làng. Họ sẽ kể rất rạch ròi tên anh, tuổi anh, anh gầy béo thế nào, có bao nhiêu nốt ruồi ở mặt, có mấy lỗ rách ở ống quần bên trái.
       Tôi mỉm cười, cắt nghĩa cho anh hiểu: lúc này họ cần để ý đến những người lạ mặt tới làng. Tôi chắc mấy người nấp nom tôi là mấy người có trách nhiệm trong ủy ban hay mấy anh tự vệ.
       - Lại còn các ông ủy ban với các bố tự vệ nữa mới chết người ta chứ! Họ vừa ngố vừa nhặng xị. Đàn bà chửa mà đến nỗi cho là có lựu đạn giắt trong quần! Họ đánh vần xong một cái giấy ít nhất mười lăm phút, thế mà động thấy ai đi qua hỏi giấy. Anh đi, hỏi. Anh về, hỏi nữa. Anh vừa ra khỏi làng, sực nhớ quên cái mũ, trở lại lấy, cũng hỏi rồi mới cho vào. Lát nữa anh ra, lại hỏi. Hình như họ cho cái việc hỏi giấy thú lắm.
       Anh cười gằn một tiếng, nhìn bao trùm cả người tôi, hỏi:
       - Anh sống ở nhà quê nhiều, anh có hiểu tâm lý của họ không? Anh thử cắt nghĩa hộ tôi tại làm sao họ lại nhiêu khê đến thế? Từ trước đến nay, tôi chỉ toàn ở Hà Nội, thành thử chỉ mới biết những người nhà quê qua những truyện ngắn của anh. Bây giờ gần họ, tôi quả là thấy không chịu được. Không chịu được!
       Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài, theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối. Vợ chồng anh thi nhau kể tội người nhà quê đủ thứ. Toàn là những người ngu độn, lỗ mãng, ích kỷ, tham lam, bần tiện cả. Cha con, anh em ruột cũng chẳng tốt với nhau. Các ông thanh niên, các bà phụ nữ mới bây giờ lại càng nhố nhăng. Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Mở miệng ra là thấy đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh báo, thực dân, phát xít, phản động, xã hội chủ nghĩa, dân chủ với cả tân dân chủ nữa mới khổ thiên hạ chứ! Họ mà tóm được ai thì có mà chạy lên giời! Thế nào họ cũng tuyên truyền cho hàng giờ. Có lữ họ cho những con người Hà Nội về như vợ chồng anh đều lạc hậu, chưa giác ngộ nên họ không bỏ lỡ một dịp nào để tuyên truyền vợ chồng anh. Mà tuyên truyền như thế nào!...
       Anh trợn mắt bảo tôi:
       - Tôi kể cho anh nghe chuyện này thế nào anh cũng cho là bịa. Nhưng tôi có bịa một tí nào, tôi chết. Một hôm, tôi đi chợ Huyện chơi. Ở nhà đã hỏi đường cẩn thận rồi. nhưng đến một cái ngã ba, lại quên béng mất, không biết rẽ lối nào. Đành đứng lại, chờ có người đi qua thì hỏi. Chờ mãi mới thấy một ông thanh niên nghễu nghệ vác một bó tre đi tới. Tôi chào rồi hỏi: "Đi chợ Huyện lối nào, ông làm ơn chỉ giúp tôi". Anh ta trố mắt nhìn tôi chẳng nói chẳng rằng, như nhìn một giống lạ người mới ở Hỏa tinh rơi xuống. Tôi biết hiệu, rút giấy đưa cho anh xem rồi lại hỏi. Bấy giờ anh ta mới bảo: "Ông cứ đi lối này, đến chỗ có một cây đa to thì rẽ về bên tay phải, đi một quãng lại rẽ về bên tay trái, qua một cánh đồng, vào đường gạch làng Ngò, vòng ra đằng sau đình, rẽ về tay phải, đi một quãng nữa thì đến chợ". Đại khái thế, chứ không phải hoàn toàn đúng thế. Chỉ biết là nó lôi thôi rắc rối, nhiều bên phải bên trái quá, đến nỗi tôi không tài nào nhận được. Anh ta bày cho tôi một cách: đứng đợi đấy, gặp ai gánh hàng đi chợ thì đi theo. Tôi cho là phải. Anh ta cười bảo: "Thôi thế chào ông. Cháu vô phép ông đi trước. Cháu vội lắm. Cháu phải vác ngay bó tre này lên Thượng để làm công tác phá hoại, cản cơ giới hóa tối tân của địch. Cuộc trường kỳ kháng chiến của ta phải chia làm ba giai đoạn phòng ngự, giai đoạn cầm cự, giai đoạn tổng phản công. Giai đoạn phòng ngự nghĩa là...". Anh ta cứ thế đọc thuộc lòng cho tôi nghe cả một bài dài đến năm trang giấy.
       Chị Hoàng cười rú lên. Tôi cũng cười, nhưng có lẽ cái cười chẳng được tươi cho lắm. Anh thấy cần phải thề lần nữa.
       - Tôi có bịa tôi chết. Mà tôi lại thề với anh rằng lúc ấy tôi ngạc nhiên quá, không còn cười được. Vả lại cũng không dám cười. Cười, nhỡ anh ta đánh cho thì tai hại. Nhưng từ hôm ấy ngày nào tôi cũng bắt nhà tôi đóng cổng suốt ngày không dám đi đâu nữa.
       Tôi cười gượng. Điều muốn nói với anh, tôi đành giữ kín trong lòng không nói nữa. Tôi biết chẳng đời nào anh nhận làm một anh tuyên truyền nhãi nhép như tôi. Vả lại dầu có rủ được anh làm như tôi, khoác cái ba lô lên vai, đi hết làng nọ đến làng kia để nhận xét nông thôn một cách kỹ càng hơn cũng chẳng ích gì. Anh đã quen nhìn đời và nhìn người một phía thôi. Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài "ba giai đoạn" nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù. Mà ngay trong cái việc anh thanh niên đọc thuộc lòng bài báo như một con vẹt biết nối kìa, anh cũng chỉ nhìn thấy cái ngố bề ngoài của nó, mà không nhìn thấy cái nguyên cớ thật đẹp đẽ bên trong. Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát nhiều, người ta chỉ càng thêm chua chát và chán nản...
       Tôi biết lắm. Trước mặt người đàn anh trong văn giới ấy, tôi chỉ là một kẻ non dại, mới tập tọng học nghề. Bởi vậy tôi không dám nói hết những ý nghĩ của tôi ra. Tôi chỉ rụt rè và đưa ra vài điều nhận xét:
       - Có nhiều cái kỳ lạ lắm. Người nhà quê dẫu sao thì cũng còn là một cái bí mật đối với chúng ta. Tôi gần gũi họ rất nhiều. Tôi đã gần như thất vọng vì thấy họ phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng thương. Nghe các ông nói đến "sức mạnh quần chúng", tôi rất nghi ngờ. Tôi vẫn cho rằng đa số nước mình là nông dân, mà nông dân nước mình thì vạn kiếp nữa cũng chưa làm cách mạng. Cái thời Lê Lợi, Quang Trung, có lẽ đã chết hẳn rồi, chẳng bao giờ còn trở lại. Nhưng đến hồi Tổng khởi nghĩa thì tôi đã ngã ngửa người. Té ra người nông dân nước mình vẫn có thể làm cách mạng hăng hái lắm. Tôi đã theo họ đi đánh phủ. Tôi đã gặp họ trong mặt trận Nam Trung Bộ. Vô số anh răng đen, mắt toét, gọi lựu đạn là "nựu đạn", hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh mà lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm. Mà không hề bận tâm đến vợ con nhà của như họ vẫn thường thế nữa. Gặp họ, anh không thể tưởng tượng được rằng chính những người ấy, chỉ trước đây dăm tháng, giá có bị anh lính lệ ghẹo vợ ngay trước mặt cũng chỉ đành im thin thít mà đi, đi một quãng thật xa rồi mới dám lẩm cẩm chửi thầm vài tiếng, còn bao nhiêu ghen tức đành là đem về nhà trút vào má vợ.
       Hoàng nhếch một khóe môi lên, gay gắt:
       - Nhưng anh vẫn không thể chối được rằng họ có nhiều cái ngố không chịu được. Tôi thấy có nhiều ông tự vệ hay cả vệ quốc quân nữa táy máy nghịch súng hay lựu đạn làm chết người như bỡn. Nhiều ông cầm đến một khẩu súng kiểu lạ, không biết bắn thế nào. Như vậy thì hăng hái cũng vất đi. Nhưng mà thôi! Nước mình như vậy, suốt đời không được mó đến khẩu súng thì làm gì biết bắn, họ đánh mãi rồi cũng biết. Thì cứ để cho họ đánh Tây đi! Nhưng tai hại là người ta lại cứ muốn cho họ làm ủy ban nọ, ủy ban kia nữa, thế mới chết người ta chứ! Nói ví dụ ngay như cái thằng chủ tịch ủy ban khu phố ở Hà Nội lúc chưa đánh nhau. Nó là một anh hàng cháo lòng. Bán cháo lòng thì nó biết đánh tiết canh, chứ biết làm ủy ban thế nào mà bắt nó làm ủy ban? Ông chủ tịch làng này, xem giấy nhà tôi, thế đề Nguyễn Thục Hiền, cứ nhất định bảo là giấy mượn của đàn ông. Theo ông ấy, thì đàn bà ai cũng phải thị này, thị nọ.
       Chị Hoàng cười nhiều quá, phát ho, chảy cả nước mắt ra. Rút khăn tay lau nước mắt xong, chị chép miệng lắc đầu bảo tôi:
       - Giá bác ở đây thì nhiều lúc bác cũng cười đến chết. Thế mà ông chủ tịch ấy cứ nằn nì mãi hai ba lượt yêu cầu nhà tôi dạy Bình dân học vụ hay làm tuyên truyền giúp.
       Anh chồng tiếp:
       - Tôi chẳng có việc gì làm, lắm lúc cũng buồn. Nhưng công tác với những người như vậy là anh bảo công tác làm sao được? Đành để các ông ấy gọi là phản động.
       Muốn lảng chuyển, tôi hỏi:
       - Lúc này nhiều thì giờ thế, chắc anh viết được. Anh đã viết được cái gì thú chưa?
       - Chưa, bởi vì ngay đến cái bàn viết ra hồn cũng không có nữa. Nhưng thế nào chúng mình cũng phải viết một cái gì để ghi lại cái thời này. Nếu khéo làm còn có thể hay bằng mấy cái "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng, Phụng nó còn sống đến lúc này phải biết!
       Cơm chiều xong vào lúc bốn giờ, Hoàng mời tôi cùng đi với vợ chồng anh đến chơi nhà mấy người ở phố cũng tản cư về. Có một ông tuần phủ về hưu, một ông đốc học bị thải hồi vì một vụ hiếp học trò, một cụ phán già trước đây chuyên môn sống về nghề lo kiện, hay chạy cửu phẩm cho thiên hạ. Anh chẳng ưu gì họ vì họ chẳng biết gì đến văn chương nghệ thuật, chỉ tổ tôm là giỏi. Nói chuyện với họ chán phè. Nhưng nếu chẳng giao thiệp với họ thì cũng chẳng biết đến chơi nhà ai được nữa... Anh vừa đi vừa tâm sự nhỏ với tôi như vậy, và thì thầm kề sát tai những cái thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm đời của từng người một, trong khi chúng tôi bước chầm chậm để đợi chị Hoàng ra sau chúng tôi một chút.
       Chị Hoàng rảo bước để theo kịp chúng tôi. Hai má đỏ ửng vì lửa bếp, chị cắt nghĩa sự chậm trễ của chị:
       - Tôi xem lại nồi khoai lang vùi, để lát nữa về ăn. Ở đây cao lương mỹ vị chẳng có gì, nhưng được cái thức ăn vặt thì sẵn. Bác ở chơi đây mai tôi xem nhà ai có mía to mua mấy cây về ướp hoa bưởi ăn thơm lắm.
       Đến một cái cổng gạch lớn có dây leo, anh Hoàng giật dây chuông. Một thằng bé chạy ra, lễ phép chào:
       - Lạy ông!
       - Không dám. Cụ Phạm có nhà không cậu?
       - Bẩm ông cụ sang bên ông đốc.
       - Sao thấy nói ông đốc ở chơi đây từ sáng?
       - Bẩm không ại! Sáng nay không thấy ông đốc sang chơi bên này.
       Chúng tôi quay trở lại. Qua mấy cái ngõ ngoằn ngoèo khác, đến một cái cổng gạch có dây leo khác. Một chị vú ẵm em đứng cổng:
       - Lạy ông! Lạy bà!
       - Không dám. Ông đốc có nhà hay đi chơi vắng?
       - Bẩm ông, ông đóc con sang cụ tuần.
       - Sao bên cụ tuần bảo sang đây?
       - Bẩm ông, không ạ!
       Anh Hoàng quay ra. Đi được mấy bước, anh quay lại khẽ bảo vợ:
       - Các bố lại tổ tôm. Mụ Yên Ký cũng không có nhà, phải không? Con mụ ấy cũng là để tử tổ tôm hạng nặng. Chắc họ tụ tập ở đây hay ở bên nhà cụ Phạm, sai người nhà gác cổng.
       Chị Hoàng không có ý kiến gì. Anh Hoàng vỗ vai bảo tôi:
       - Anh nghĩ có buồn không? Trì thức thì thế đấy. Còn dân thì... như anh đã biết.
       Tôi thầm rủa sự tình cờ sao lại xô đẩy anh về đây cùng với bằng ấy thứ cặn bã của giới thượng lưu trí thức. Sao anh không đi theo bộ đội, đi diễn kịch tuyên truyền, nhập bọn với các đoàn văn hóa kháng chiến để được thấy những sinh viên, công chức sung vào vệ quốc quân, những bác sĩ sốt sắng làm việc trong các viện khảo cứu hay các viện quân y, những bạn văng nghệ sĩ của anh đang mê mải đi sâu vào quần chúng để học và dạy họ, đồng thơi tìm những cảm hứng mới cho văn nghệ?
       Tôi cười nhạt:
       - Nghe anh nói, tôi nản quá. Như vậy cuộc kháng chiến của ta có lẽ đến hỏng à?
       Anh chộp lấy câu nói của tôi, nhanh như một con mèo vồ con chuột:
       - Ấy đấy, tôi bị lắm. Cứ quan sát kỹ thì rất nản. Nhưng tôi chưa nản có lẽ chỉ vì tôi tin vào Ông Cụ. Tôi cho rằng cuộc cách mạng tháng Tám cũng như cuộc kháng chiến hiện nay chỉ ăn vì người lãnh đạo cừ. Hồ Chí Minh đáng lẽ phải cứu vãn một nước như thế nào kia, mới xứng tài. Phải cứu một nước như nước mình kể cũng khổ cho Ông Cụ lắm. Anh tính tượng trưng cho phong trào giải phóng cả một cái đệ tứ cường quốc Đại Pháp, mà cũng chỉ có đến thằng Đờ Gôn.
       Tôi nhắc đến tên mấy nhân vật kháng chiến cũ của Pháp, còn đáng tiêu biểu bằng mấy Đờ Gôn. Anh lắc đầu:
       - Bằng thế nào được Hồ Chí Minh!
       Và anh tiếp:
       - Ông Cụ làm những việc nó cừ quá, đến nỗi tôi cứ cho rằng dù dân mình có tôi đi nữa, Ông Cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường. Những cú như cú Hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 thì đến chính thằng Mỹ cũng phải lắc đầu: nó cho rằng không thể nào bịp được Ông già nổi. Thằng Pháp thì nghĩa lý gì? Bệt lắm rồi. Không có thằng Mỹ xui thì làm gì Pháp dám trở mặt phản Hiệp định mồng 6 tháng 3? Mình cho nó như vậy đã là phúc đời nhà nó rồi. Đáng lẽ nó phải bám chằng chằng lấy chứ?
       Buổi tối ăn khoai vùi xong, uống mấy tuần trà rồi đi nằm sớm. Anh sợ tôi đã đi hàng mười cây số, lại ngồi nói chuyện suốt từ lúc đến, chắc không thể ngồi được nữa. Vả lại, tuy chưa buồn ngủ nhưng năm đắp chăn cho ấm và buông màn cho khỏi muỗi đốt thì vẫn tốt.
       Hai cái giường nhỏ kê song song, cách nhau có một lối đi nhỏ.
       Màn tuyn trắng toát. Chỉ trông cũng đã thấy thơm tho và thoải mái.
       Hoàng với tôi đi nằm trước. Một gói thuốc lá thơm và một bao diêm đặt ở bên cạnh cái đĩa gạt tàn thuốc là ở đầu giường. Tôi để nguyên cả quần áo tây và chỉ ngay ngáy lo đêm nay một chú rận có thể rời sơ mi tôi để đi du lịch ra cái chăng bông thoang thoảng nước hoa. Mọi hôm tôi vẫn đắp chăng chung với anh em thợ in, cái giống ký sinh trùng hay phản chủ ấy, ở người tôi, không dám cam đoan là tuyệt nhiên không có.
       Chị Hoàng thu dọn đồ đạc, đóng cửa, rồi đem một cây đèn to lại chỗ chân giường chúng tôi, lấy ra một cái chai. Anh Hoàng trông thấy, hỏi:
       - Mình thắp đèn to đấy à?
       - Vâng, tôi đổ thêm dầu đã.
       Anh Hoàng hỏi tôi:
       - Anh có thích đọc Tam quốc không?
       Tôi thú thật là chưa bao giờ được xem trọn bộ.
       - Thế thì thật đáng tiếc. Trong tất cả các tiểu thuyết Đông Tây, có hai quyển tôi mê nhất là Tam quốc và Đông chu liệt quốc. Về cái môn tiểu thuyết thì thằng Tàu nhất. Nhưng cũng chỉ có hai bộ ấy thôi. Thủy hử cũng hay, nhưng kém Tam quốc và Đông chu liệt quốc. Nhưng tiểu thuyết khác hay đến đâu, anh cũng chỉ đọc một lần. Đọc đến lần thứ hai là giảm thú rồi. Nhưng Tam quốc với Đông chu thì đọc đi đọc lại mãi vẫn thấy thứ như mới đọc.
       - Anh có hai bộ ấy ở đây không?
       - Bộ Đông cu mất ở Hà Nội, không đem đi được. Thế mới sầu chứ! Hận quá. May mà bộ Tam quốc để ở ngoại thành, đem đi được. Nếu không thì buồn đến chết.
       Anh gạt tàn thuốc lá rồi bảo tiếp:
       - Sở dĩ lúc nãy tôi hỏi anh có thích đọc Tam quốc không là vì mỗi tối trước khi đi ngủ, chúng tôi có cái thú đọc một vài hồi Tam quốc rồi mới đi ngủ. Nhưng hôm nay có anh không biết có nên bỏ cái lệ ấy đi không? Nếu anh thích nói chuyện thì nghỉ một tối để chúng mình nói chuyện cũng chẳng sao.
       Cố nhiên là tôi mời vợ chồng anh cứ giữ lệ thường. Anh có vẻ mừng lắm:
       - Vâng, nếu anh cho phép thì ta cứ đọc. Chúng mình cùng nghe rồi lúc nào buồn ngủ thì ta ngủ. Tôi trông anh hơi mệt có lẽ cần ngủ sớm. Không biết đèn sáng lại đọc thế có phiền anh không?
       Tôi cho anh biết là tôi vẫn ngủ ngay trong nhà in, đèn sáng và máy chạy ầm ầm, ở đây chăn ấm thế này thì dẫu súng có nổ ngay ở liền bên tôi vẫn ngủ ngon lành lắm. Anh cười cùng cục trong cổ như một con gà sống:
       - Vâng thế thì ta cứ đọc. Mình lấy ra đi.
       Chị Hoàng chạy lại buýp phê lấy một quyển sách bìa dầy gáy đen đem lại:
       - Mình đọc hay tôi đọc?
       - Mình đọc đi.
       Chị để cây đèn lên trên cái đôn thấp ở đầu giường, cởi áo dài lên giường nằm cạnh thằng con đã chui vào chăn trước:
       - Hôm qua đọc đến đâu rồi nhỉ. Hình như...
       - Không cần, mình đọc lại cái đoạn thằng Tào Tháo nó tán Quan Công ấy. Thế nào? Theo ý anh thì Tào Tháo có giỏi không?
       Tôi trả lời qua loa cho xong chuyện:
       - Tôi thấy nói là nó giỏi:
       - Giỏi lắm anh ạ! Giỏi nhất Tam quốc. Sao nó tài đến thế.
       Chị Hoàng đã tìm thấy, bắt đầu cất tiếng thanh thanh đọc. Anh Hoàng vừa hút thuốc lá vừa nghe. Mỗi khi đến đoạn hay, anh lại vỗ đùi kêu:
       - Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên sư anh Tào Tháo...

1948
Rút từ Văn nghệ số 2 năm 1948
NXB. Hội Nhà văn,
Hà Nội - 1998

Thứ Tư, 27 tháng 8, 2014

Đui mù

       Vào bàn ăn, thấy chỉ có mình bạn và tôi, tôi không sao giấu nổi sự ngạc nhiên. Hùng như cũng đoán ra điều ấy, mỉm cười hỏi tôi:
       - Chắc anh lấy làm lạ vì không có Nga ngồi cùng ăn với chúng ta như năm trước?
       - Quả có thế. Ý hẳn chị đi chơi đâu?
       Hùng lắc đầu cười gượng:
       - Tôi bỏ Nga từ năm tháng trước kia rồi!
       Tôi sửng sốt như bị điện giật, mắt mở to, miệng há hốc. Vẫn nụ cười chua chát, Hùng bảo tôi:
       - Anh không tin? Anh không tin là phải, vì tôi yêu Nga lắm, yêu hơn tất cả những tình nhân say đắm nhất trên đời. Hồi ấy giá ai bảo tôi rằng một ngày kia có thể bỏ Nga, thì tôi đã không ngần ngại gì mà cho người ấy là loạn óc! Ấy thế mà cái việc bất ngờ ấy đã xảy ra... xảy ra một cách đau đớn... Nhưng anh cầm đũa đi đã chứ. Ta vừa ăn vừa nói chuyện.

*

       Thường thường năm nào cũng vậy, mấy tháng nắng chúng tôi dọn ra "Ô Cấp" ở. Một ông bác tôi có một cái nhà ở ngoài đó bao giờ cũng sẵn lòng cho chúng tôi mượn không lấy tiền. Nhưng năm nay tôi đang soạn dở một cuốn tiểu thuyết để kịp cho đăng vào tờ tạp chí của anh Quang mới được phép ra, nên cần nán lại Sài Gòn vài tuần nữa. Dù thế tôi cố ép Nga đi ra "Cấp" trước, vì ở Châu Thành bấy giờ nóng nực khó chịu lắm, và nhất là vì tôi sợ bận rộn không săn sóc tới Nga luôn luôn được để Nga buồn. Mà chẳng nói tới anh cũng biết, tôi muốn Nga sung sướng luôn luôn, tôi không thể thấy nàng buồn nản, dù chỉ trong vài phút. Bởi vậy cho nên dù Nga năn nỉ đòi ở lại đợi tôi và nói chỉ có thể sung sướng khi thấy tôi bên cạnh, tôi cũng nhất quyết nài Nga thu xếp ra đi. Tôi phải nói với Nga rằng tôi muốn Nga ra "Cấp" sửa sang chỗ ở trước, và hứa với nàng rằng sẽ ráng làm xong công việc cho mau chóng để ta với cô nàng ngay, nàng mới chịu nghe theo. Nhưng chúng tôi cứ dùng dằng mãi không nỡ dứt. Nàng thì lúc chực ra đi, lúc lại đòi ở lại, có lúc hai con mắt van vỉ nhìn tôi như cầu xin, oán trách khiến tôi cảm động đến đáy lòng, và không bao giờ hiểu một cách sâu xa cái tình yêu tha thiết của nàng đối với tôi bằng lúc ấy. Nhưng rồi nàng cũng chịu ra xe. Còn tôi, sau khi đã cố gạt hết những nỗi buồn ly biệt, bèn lập tức quay vào công việc để làm khuây, và nhất là để mau hết, để có thể ra "Cấp" với người mình yêu được. Ngay chiều hôm ấy, tôi thu xếp sang Thị Nghè. Tôi cần ở cái xóm làm nơi trú ngụ cho một phần đông dân lao động ấy ít lâu để thu cóp tài liệu cần đến trong cuốn tiểu thuyết tôi đang viết, với cái giá tiền năm đồng một tháng. Vợ một bác thợ may nấu cơm tháng cho năm, sáu người lao động, cho tôi mỗi ngày hai bữa cơm thanh đạm và một cái bàn đã mọt kê ở sát cửa sau, cạnh bức tường làm bằng ván mỏng ghép lại với nhau. Cái bàn ấy mỗi ngày hai lần dùng làm bàn ăn cho cả nhà. Ăn xong, tôi lấy giẻ lau sạch đi, giải một tờ nhật trình lên làm bàn viết. Tối đến thì cái bàn ấy lại trở nên một cái giường cho tôi ngủ. Ấy thế mà tôi lại còn vào hạng "đàng hoàng" kia đấy! Mấy người khác, sau khi đã vất vả suốt ngày trong xưởng thợ hay ngoài đường nắng, tối đến chỉ giải một manh chiếu xuống thềm, tồi lăn ra nằm với nhau như heo vậy. Cái cảnh khổ cực luôn luôn bày ra trước mắt tôi làm tôi thấy nỗi nhớ nhung, đau khổ trong lòng tôi nhỏ nhặt, và tồi đã gần khuây nỗi nhớ thì một sự gặp gỡ lại làm hình ảnh Nga trở về ám ảnh tôi. Một buổi trưa nắng chang chang, tôi đang ngồi nhìn mấy người đàn bà xắn quần lên quá đầu gối đem thùng ra giếng kéo nước, bỗng có tiếng hỏi mượn cái bình pha trà. Tôi quay lại và bỗng ngạc nhiên hết sức. Người con gái đúng sau lưng tôi giống Nga như đúc: cũng đôi mắt trong trẻo, ngây thơ, cũng cái miệng nhỏ xinh xinh với làn môi hơi mỏng và, nếu không có nước da hơi xạm nắng, bàn tay hơi lớn và thô, với dáng người nặng nề vì quen khó nhọc thì tôi đã tưởng đó chính là Nga, mặc bộ đồ mộc mạc ấy trở lại để làm tôi sửng sốt. Sự giống nhau ấy làm tôi có cảm tình với chị ta, mà sau hỏi ra tôi mới biết là vợ một người lính ở ngay nhà bên cạnh. Tôi càng có cảm tình với chị khi tôi biết chị thật là cái hành phúc vô song của người chồng sung sướng nọ. Đã bao lâu tôi nhìn qua khe những tấm vãn ghép làm tường, thấy họ sống cái cảnh êm đềm, vui vẻ của đôi vợ chồng trẻ quyến luyến nhau và phải mỉm cười mơ màng nhớ lại những phút say sưa của tôi với Nga trong những lúc nhìn nhau bằng con mắt đầy âu yếm. Nhưng tôi cảm động nhất khi một buổi sáng vô tình dự vào cuộc tạm biệt của đôi uyên ương ấy. Tôi nhận lại hết những dáng điệu quyến luyến, dùng dằng, buồn rầu không nỡ rứt của Nga và tôi hôm nọ. Tôi rỏ nước mắt khi nghe thấy câu nói thiết tha đầy vẻ thành thật của người vợ trẻ:
       - Thôi mình đi đi... Em lại đành ngồi mong từng phút cho ngày chóng hết!
       Và tôi bỗng rầu rầu tưởng đến nỗi nhớ mong của Nga mỏi mắt đợi người yêu ngoài "Cấp". Tôi lại vội vàng lấy bút mực, cắm đầu viết cho mau xong cuốn truyện. Mới viết được chừng một trang thì tiếng cười rúc rích ở nhà bên cạnh làm tôi ngừng viết. Tôi mỉm cười, nghĩ bụng: "Chắc anh chồng ra đi một quãng, suy nghĩ thế nào lại còn muốn về hôn vợ thêm cái nữa!". Tôi cúi đầu nhìn trộm qua khe ván xem điều dự đoán của mình có đúng không. Nhưng người tôi bỗng run lên một cái. Cây viết rơi xuống đất. Cây viết rơi xuống đất. Tôi dụi mặt lại ba cái và bàng hoàng không tin ở mắt mình. Người thiếu phụ có con mắt ngây thơ trong trẻo kia đang nũng nịu trên giường, cánh tay trần đu lấy cổ một chàng trai trẻ mà tôi nhận ra không phải anh lính. Mặt nàng đỏ bừng bừng, đầu hơi ngả về đằng sau, khoa cái cổ tròn trĩnh và cái ngực nở đang hồi hộp, hai làn môi đỏ ướt hé mở như chờ một cái hôn. Tôi bỗng thấy  trái tim như ngừng đập, người run rẩy, cổ khô, đầu choáng váng như chính Nga đang quằn quại trên giường với người khác vậy. Nhưng tôi còn tức tối hơn nữa, khi chiều hôm ấy, lúc chồng về, con dâm phụ lại vẫn giữ được vẻ trong trẻo, ngây thơ, vồn vã xoắn xít chồng như không có chuyện gì xáy ra...
       - Gớm! Sao mình về trễ thế? Em đợi mình từng phút.

*

       Ba hôm sau, tôi đi "Cấp", dù cuốn tiểu thuyết chưa xong một nửa. Nếu tôi có ở lại chắc cũng không viết thêm được trang nào nữa. Tôi lấy cớ rằng tài liệu đã thu cóp đủ để an ủi lòng: "Đủ tài liệu rồi thì ở đâu viết mà chả được", tôi nghĩ thế rồi đáp xe đi ngay, không do dự. Tôi tới "Cấp" vào lúc bốn giờ sáng. Tuy đang ngái ngủ, Nga cũng tiếp tôi vồn vã vô cùng. Nhưng trái với mọi lần, hôm nay tôi thấy sự mừng rỡ xoắn xít của nàng hơi khó chịu. Có lẽ nàng cho vẻ mặt lãnh đạm của tôi lúc bấy giờ là do đi đường mệt nhọc nên không để ý. Còn tôi thấy bộ đồ ngủ quá hở của nàng và đưa mắt nhìn lên giường mền xốc xếch thì tự nhiên thấy lòng nôn nao một cách lạ thường. Nhưng một giấc ngủ êm đềm đến tận mười giờ đã làm cho người tôi bình tĩnh lại. Nhìn Nga nhảy nhót khắp nhà như một con chim, đôi mắt ngây thơ trong trẻo như không bao giờ có điều hối hận, cái miệng xinh xinh líu lô những chuyện không đầu không cuối như con nít, tôi thấy lòng vui vẻ lại. Nàng nũng nịu hỏi tôi:
       - Nhà thi sĩ của em có muốn làm thơ không?
       Tôi mỉm cười.
       - Nếu muốn thì Nga dẫn đến thiên thai cho mà ngâm vịnh!
       Cái thiên thai của Nga là một đám cái mấp mô đầy những tảng đá nhẵn nhụi ở dưới chân núi, liền mặt biển. Cây cối um tùm che kín khiến nó cách biệt ra như một thế giới khác. Ở ngoài, sóng biển xô nhau dào dạt chảy vào và bắn tung lên thành đám bụi trắng xóa. Tôi không để ý đến vẻ nên thơ của cảnh, mà chỉ băn khoăn nghĩ đến sự kín đáo của một nơi có thể che đậy bao nhiêu cuộc ái ân lãng mạn. Thấy Nga nũng nịu đu lấy cổ tôi, tôi thấy trong tim rung lên một cái như bị một mũi dao chạm phải. Rồi luôn luôn trong tôi sống những ngày khổ sở, băn khoăn trong sự nghi ngờ. Và sau cùng, tôi muốn biết.
       Và tôi đã biết! Phải, anh ạ, tôi đã biết!... Trí sáng suốt, sự tò mò, lòng tự ái tôi được thỏa... Nhưng trái tim tôi thì tan nát mất rồi!... Tôi đã nói dối Nga là tôi phải về Sài Gòn có việc cần. Nhưng đi được một quãng, tôi bắt dừng xe lộn lại, và lần ra chỗ "thiên thai" nấp vào trong bụi rậm. Sự nghi ngờ của tôi không đến nỗi vô lý. Quả nhiên chiều hôm ấy tôi được thấy Nga nũng nịu đu lấy cổ một chàng trai trẻ, như đã đu lấy cổ tôi cũng ở tảng đá cũ.

*

       - Thế rồi anh ly dị?
       Hùng không đáp. Anh ngồi cúi mặt, mắt đăm đăm nhìn xuống bàn, lộ một vẻ đau đớn lắm. Một lúc anh khẽ nói, giọng chán nản của một chàng bị đánh cắp ái tình:
       - Tôi hối hận. Thà rằng tôi cứ ở chúi xó thôn quê ấy để thầm ca tụng lòng chung thủy của Nga, thà rằng tôi cứ đui mù như anh lính nọ lại được hoàn toàn sung sướng hơn là tìm đến sự thực, để thất vọng ví sự thực.

THÚY RƯ
Tiểu thuyết thứ Bảy
19-6-1937

Thứ Năm, 7 tháng 8, 2014

Nghèo

       - Bu ơi con đói...
       Lần này có lẽ là lần thứ mười, thằng cu Bé chạy về đòi ăn, chị đĩ Chuột đang quấy một nồi gì trong bếp, cáu tiết chạy ra mắng át nó đi:
       - Đã bảo hết cơm rồi, tí nữa chè chín thì ăn chè mà!...
       Thấy mẹ gắt, thằng cu không dám đòi ăn nữa, nhưng mặt nó nhăn nhó bịu xịu như muốn khóc, chị đĩ Chuột thương hại, dịu dàng bảo:
       - Con chạy ra vườn xem chị Gái làm cỏ, lúc nào chè chín bu gọi về mà ăn... chóng ngoan rồi bu thương.
       Nhưng nó không nhúc nhích, mà nó còn nhúc nhích làm sao được: một nắm cơm nhỏ ăn từ sáng đã bị cái dạ dày chăm chỉ của con nhà nghèo tiêu hết đến phèo một cái rồi, còn chi. Nó ngồi phịch xuống đất, gục đầu vào ngưỡng cửa, ngáp...
       - Sắp chín chưa, bu?
       Quay ra vẫn còn thấy con nằm phục đấy, mắt lờ đờ như chết là, chị Chuột chép miệng:
       - Thôi đây! Chín chả chín thì đừng, bắc mẹ nó ra cho chúng mày ăn không có chúng mày làm tội cũng chết. Chốc lại nheo nhéo, chốc lại nheo nhéo...
       Chị vừa lẩm bẩm, vừa dập lửa rồi bắc cái nồi ở trên bếp xuống, lấy một cái vỏ trai múc vào mấy cái bát sành sứt mẻ tứ tung, đặt ngay trên mặt đất. Thằng cu Bé vội vàng lê xích lại gần, hai mắt lóng lánh đổ dồn cả vào mấy bát "chè" màu nâu đục, khói bốc lên nghi ngút. Mồm nó nuốt nước bọt ừng ực, mũi nó nở hẳn ra như để hít lấy hương vị của khói chè ngòn ngọt. Chị đĩ phải đưa tay cản nó, sợ nó sà vào mà bị bỏng. Chị bảo nó:
       - Còn nóng lắm, chưa ăn được. Con ra vườn gọi chị về cho chị ăn với không có phải tôi chết, nó làm quần quật từ sáng đến giờ mà chưa được tí gì vào bụng.
       Không đợi đến hai tiếng, cái Gái hớn hở chạy chạy về, lôi thôi lếch thếch trong mấy mảnh giẻ rách tả tơi, vừa đến bếp, nó đã reo lên:
       - Sướng quá! Lại được ăn chè kia chứ, có ngọt không bu? Bu lấy đâu được mật mà lại nấu chè thế?
       Chị Chuột mắng yêu con:
       - Úi chà! Tíu tít như con mẹ dại ấy! Tha hồ ăn đến chán chê, chỉ sợ không sao nuốt được thôi, con ạ.
       Rồi chị bảo thằng cu Bé:
       - Bé lại đây, bu cho ăn.
       Thằng cu ngồi xổm bên mẹ, hấc mặt lên, há hốc mồm ra như con chum con đợi mẹ mớm mồi. Một miếng vào mồm, nó đã vội nuốt thỏm đi, khen "ngọt quá". Nhưng chưa kịp ăn miếng nữa, nó đã ọe một cái, mũi đỏ lên, nước mắt ứa ra giàn giụa.
       - Sao thế?
       Nó chỉ hụ hị nhìn mẹ mà không nói, cũng không chịu há mồm ăn nữa. Cái Gái nhìn mẹ, xêu một miếng chè nữa ăn thử lại:
       - Nhạt quá, bu à.
       Chị Chuột mắng con:
       - Làm gì có nhiều mật mà ngọt. Có mà ăn cho no bụng là phúc rồi.
       Thằng cu chừng đói quá không chịu được, lại há mồm ra. Mẹ nó đút cho nó một xêu nhỏ nữa. Nó nhắm mắt, duỗi cổ, cố nuốt cho trôi. Nhưng cũng như lần trước, nó lại ọe ra, và khóc òa lên. Chị đĩ Chuột lấy tay áo lau nước mắt không cầm nổi đã trào ra hai má xanh bủng như người ngã nước. Cái Gái lấy tay di một cục "chè". Rồi bỗng nói to lên:
       - A! Con biết rồi! Không phải chè, cám mà! Cám mà bu bảo chè!
       Nhưng mẹ nó đưa mắt nhìn nó, lấy ngón tay chỉ ra phía nhà ngoài nói khẽ, nhưng hơi gắt:
       - Khe khẽ cái mồm một tí! Rẻo mãi lên, thằng bố mày nó nghe thì nó chết! Nó đã ốm nằm đấy, thuốc không  có mà còn bực mình thì nó chết.
       Rồi hai mẹ con lẳng lặng ăn, cố nuốt những bát cám đặc khè cho đỡ đói. Thằng cu nhất định không chịu ăn, ngồi khóc tỉ tỉ đòi cơm. Chị đĩ Chuột đành dỗ nó:
       - Thôi nín ngay, bu ăn xong bu xin thầy cho một miếng mà ăn.

*

Chị bế con rón rén bước vào chỗ chồng nằm. Thằng bé vẫn sụt sịt. Anh đĩ Chuột giở mình, hơi nghiêng mặt quay ra. Một làn ánh sáng lướt qua làm cho cái mặt hộc hác và màu da đã xanh lại xanh thêm. Mái tóc dài xòa xuống tai và cổ, hai con mắt ngơ ngác và lờ đờ, những chiếc răng dài và thưa ở cái mồm hé ra để cho dễ thở khiến anh có cái vẻ đáng sợ của con ma đói. Thấy vợ con, anh cố gượng nhếch miệng cố gượng một cái cười méo xệch và vừa thở phều phào vừa hỏi bằng một thứ tiếng yếu ớt như từ thế giới bên kia đưa lại:
       - Nó làm sao thế?
       Chị đĩ Chuột xốc con lên một cái:
       - Nó vòi ăn đấy chứ có làm sao? Cơm gạo đỏ không chịu ăn, đòi ăn cơm trắng của thầy cơ.
- Thì lấy cho nó ăn, tôi ăn làm sao hết?
       Chị đĩ Chuột lấy liễn cơm chực moi cho một ít. Nhưng anh bảo:
       - Mang cả ra cho nó ăn, tôi không ăn nữa đâu. Còn bao nhiều vét cho cái Gái với bu em ăn hết đi, để đó thiu ra đấy.
       Chị đĩ Chuột cười bảo chồng:
       - Thằng cu nó dở người, chứ mẹ con tôi ăn cơm đỏ đã no rồi, ăn vào đâu được nữa?
       Anh biêt vợ nói dối, chực nói, nhưng lại thôi, buồn rầu buông một tiếng thở dài. Vợ lo ngại hỏi:
       - Bây giờ người thế nào, để tôi kể với ông lang lấy thuốc?
       - Tiền đâu mà thuốc thang mãi?
       - Tôi vừa bán con chó mực với hai buồng chuối non được bốn hào.
       Chồng nhìn vợ, ngẫm nghĩ một chút rồi bảo:
       - Đừng lấy thuốc nữa, tôi sắp khỏe rồi, chỉ ăn cho nó khỏe lên chắc bệnh phải hết. Bu em đong cho tôi cả bốn hào gạo đỏ đừng đong gạo trắng ăn nhạt lắm.
       Vợ gật đầu:
       - Cũng được, nhưng đã thật khỏi chưa? Tôi trông thầy em còn mệt lắm.
       - Ốm luôn mấy tháng trời mà không mệt sao được? Cứ đi đi.
       - Đi ngay bây giờ ak?
       - Ừ, đi xuống nhà bà phó Cửu ấy, xa một tý nhưng được rẻ.
       Vợ gật đầu bảo thằng cu:
       - Con ngồi đây với thầy cho bu đi đong gạo nhé?
       Nó không chịu, sợ sệt nhìn cha. Chị mắng:
       - Con nhà vô phúc, lại sợ bố!... Khốn nạn, tại đi về không có tiền mua bánh cho nó nên nó giận đấy mà. Phải tội chết, con ạ.
       Nhưng anh đĩ Chuột bảo:
       - Cho cả nó đi, kéo nó khóc. Bảo Gái về tôi bảo.
       Người cha khốn nạn nhìn đứa con chòng chọc, thở dài. Một giọt lệ từ từ lăn xuống chiếu:
       - Thầy bảo gì con ạ?
       - Lúc nãy mẹ con mày ăn cám phải không?
       Gái gượng cười cãi:
       - Ăn chè đấy chứ.
       Bố nó chép miệng:
       - Khốn nạn, chè đâu mà ăn, cơm còn không có nữa là chè! Rõ mày thì khổ từ trong bụng mẹ...
       - Con đi lấy cho thầy cái ghế buộc giậu, với sợi thừng ở gác bếp để thầy mắc lại cái võng, thế này cao quá.
       Cái Gái lấy ghế và thừng vào. Anh đĩ bảo:
       - Để đấy cho thầy rồi ra vườn làm cỏ đi.
       Nó ra vườn, anh gượng ngồi dậy, xuống khỏi giường, mon men ra đóng chặt cửa buồng lại. Anh lấy cái thừng làm một cái tròng chắc chắn, dùng hết sức tàn còn lại, trèo lên ghế, hai chân khẳng khiu rung lẩy bẩy. Anh buộc cẩn thận một đầu dây lên xà nhà, buộc xong mệt quá, anh đu vào cái thừng gục đầu xuống thở. Anh thấy lòng chua xót, nước mắt giàn ra hai má lõm. Rồi anh quả quyết, anh đứng thẳng người lên, chui đầu vào tròng, cái thừng cứng cáp cọ vào cổ làm anh rùng mình, khóc nấc lên một tiếng. Cả cái thân hình mành dẻ bắt đầu rung chuyển như một tầu lá rung trước gió. Bỗng anh ngừng bặt, ngây người ra nghe ngóng: Tiếng ai vừa gọi ngoài ngõ, tiếp đến cái Gái thưa và chạy ra, tiếng người kia the thé:
       - Bu mày đâu?
       Tiếng cái Gái rụt rè đáp lại:
       - Bẩm bà, bu con đi vắng.
       - Đi vắng! Đi vắng mãi! Mày về bảo mẹ mày nội ngày mai không trả tiền tao thì tao đào mả lên đấy! Cái giống chỉ biết ăn không.
       Anh đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. Hai chân giận dữ đạp phắt cái ghế đổ văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái bộ xương bọc da giãy giụa như một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn gật từng cái chậm dưới sợi thừng lủng lẳng.

*

       Ở ngoài ngõ, mẹ con chị Chuột vừa kêu khóc vừa van lạy. Bà Huyện nhất định bắt mẻ gạo mới đong để trừ sáu hào nợ chị Chuột vay từ hai tháng trước cho chống uống thuốc.

THÚY RƯ
Tiểu thuyết thứ Bảy
số 158, 5-6-1937